ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

Đời Huyền Bí
của HPB(tt)

Xem Mục ĐỜI HUYỀN BÍ CỦA BÀ BLAVATSKY

The Esoteric World of Madame Blavatsky
Daniel Caldwell
19B Walter R. Old
Hè 1887, London


 

Trong năm 1887 tôi liên lạc hằng ngày với hội viên của hội Theosophy, và mỗi ngày sự kiện tôi chưa gặp bà Blavatsky, nhân vật chính khởi xướng sự  tái sinh của huyền bí học của thế kỷ 19, lớn dần làm tôi bực bội. Rồi có thư của người bạn ở London, cho hay anh đã dàn xếp với vài thân hữu họp lại ở nhà anh thảo luận mấy vấn đề mà chúng tôi đều quan tâm, và nếu tôi xuống phố tối hôm ấy, anh sẽ đưa tôi lại gặp ‘HPB’ vào ngày hôm sau.
Tôi đi với mục đích và ý tưởng duy nhất là để gặp ‘HPB’. Tối hôm ấy thì giờ dường như đứng yên một chỗ, như với mục đích đặc biệt là để cười chê lòng thiếu kiên nhẫn của tôi. Chót hết, trời sáng dần thành ngày hè đẹp đẽ, và tới trưa tôi và người bạn có mặt ở căn nhà mà anh cho hay là sức sống của hội Theosophy từ đó mà ra.
Vào nhà, chúng tôi được đưa tới phòng khách, ít nhất tôi cho nó tên đó dù chưa hề thấy hay mong được thấy căn phòng nào khác giống như vậy. Không, tôi không lầm vì vài giây sau, đáp lại lời chào thân mật của bạn tôi, HPB từ bàn viết đứng dậy nơi bà bị chiếc ghế bành quá khổ che khuất tầm mắt, đi ra trước chảo hỏi bọn tôi.
Đôi mắt xanh sáng nhất và to nhất mà tôi chưa từng thấy mở lớn nhìn vào tôi, khi bà cầm lấy tay tôi và mở lời chào đón. Mọi hoang mang mà tôi thầm tiên đoán cho mình bay mất biệt ngay từ những lời đầu tiên của bà. Tôi thấy thoải mái và tự nhiên với HPB ngay lập tức.
– Không, tôi không chịu cho gọi là ‘Madame’, ngay cả bạn thân nhất cũng vậy, hồi tôi được đặt tên đâu ai nói chữ đó, còn nếu anh muốn thì chỉ gọi tôi là HPB. Mời anh ngồi; anh hút thuốc chứ; tôi sẽ vấn cho anh một điếu. Này E. (bạn tôi), anh ngốc, anh mà đưa tôi giỏ thuốc lá ở kia thì đúng là bậc phong lưu mã thượng.
Rồi giữa tiếng cười vui vẻ, đùa cợt và sôi nổi như của trẻ con, bà giải thích với tôi rằng E. và bà là ‘bạn cũ’ và bà rất quí anh, nhưng anh hay ‘lợi dụng tuổi già và sự ngay tình của bà’, và giỏ thuốc lá tới tay giữa tiếng rộn ràng đáp trả, và bà vấn điếu thuốc cho mỗi người chúng tôi. Xong chúng tôi bắt đầu nói chuyện nghiêm chỉnh, HPB hỏi về việc học hỏi TTH của tôi và huyền bí học tây phương, và cho tôi hay về sự thành công của phong trào TTH, người ta nói này nói kia ra sao, và báo chí lại còn nói nhiều hơn, và tất cả đều sai vì họ không hiểu, đã quên mất sách sử của họ nói gì, và không thể thấy phong trào đi về đâu. Và rồi bà kêu tôi nói bà nghe về chính tôi, cho tôi những lời khuyên thực tế, chẳng lâu sau đó tôi chào từ giã nhân vật đáng chú ý nhất mà tôi được gặp.
Tôi có cảm tưởng hết sức dễ chịu với trọn những gì đã nghe và thấy, trong lần thăm viếng ngắn ngủi ở nhà các hội viên, và ấn tượng sống động nhất mà tôi còn giữ về HPB là cung cách thân ái tuyệt vời, sự ngay thẳng không sợ hãi, tánh tươi vui thật đáng chú ý, và trên hết thẩy lòng hào hứng khi bà nói về công việc trước mặt của hội TTH. Nhiều tháng về sau, khi có đề nghị là tôi nên đến ngụ tại trụ sở hội ở London lúc ấy trên Lansdowne Road, tôi rất vui mừng làm vậy.
19 D Reginald W. Machell
Thu 1887, London
Đó là năm 1887 khi tôi được biết bà Blavatsky ở London, và tới thăm bà ở nhà tại Lansdowne Road, nơi bà cư ngụ lúc ấy. Tôi gia nhập hội năm 1888 và dự những buổi họp của chi bộ Blavatsky tại chỗ này. Bà Blavatsky có mặt trong tất cả những lần tôi đến thăm hằng tuần, và dự phần vào hết mọi diễn tiến, trả lời câu hỏi về các chỉ dạy TTH, và đôi lúc nói về đủ loại rộng lớn các chuyện có liên quan ít nhiều tới đề tài học hỏi chính là Theosophy.
Điều khiến tôi chú ý về đề tài này là niềm tin tưởng mạnh mẽ của tôi vào lòng ngay thẳng tuyệt đối của vị sáng lập hội, và khả năng diễn giải các chỉ dạy TTH chân thật, cũng như bà đủ tư cách hướng dẫn ai mong ước đi theo một lối sống cao hơn. Niềm tin tưởng dựa trên quan sát của riêng tôi và xét đoán về tư cách, mà không hề là chứng cớ của ai khác hay ý kiến của họ. Thế nên khi tôi nghe những chuyện thuộc loại không hợp với nhận xét và kết luận của riêng mình, tôi không bị chúng chi phối mà được hỗ trợ bằng niềm tin vào bà Blavatsky như là vị thầy tinh thần, dựa vào chứng cớ bên trong thấy qua những tác phẩm của bà.
Tôi càng đọc sách của bà chừng nào, niềm tin của tôi càng mạnh vào thực tại về sứ mạng của bà Blavatsky, và vào khả năng của bà truyền cho thế giới những chỉ dạy được giao cho bà nhằm mục đích ấy. Đối với tôi dường như bà có sự tận tâm tuyệt đối với Theosophy và hoàn toàn không vì tư lợi.
Tôi thấy là bà bị đau khổ lớn lao, do những lời dèm xiểm truyền tai mọi người về cuộc đời trước của bà, nhưng tôi không thấy có thảm họa nào có thể làm bà quay đi với công việc mà bà nhận làm, và thực hiện trong điều kiện sức khỏe tồi tệ, chuyện như khiến không thể làm được việc chi.
Rõ ràng là lòng tận tụy hy sinh chính mình cho công cuộc của Theosophy, có thể mang lại cho bà không phần thưởng gì hơn là lời thóa mạ và bêu xấu về một mặt, và mặt kia là sự hỗ trợ rất đáng nghi của những ai mong muốn học được nơi bà đôi chút, về kho kiến thức rộng lớn thấy rõ là bà nắm giữ. Trong khi vài người hăng hái ủng hộ có nỗ lực chân thành sống theo lời dạy và đi theo bà, đa số những ai tự gọi mình là kẻ noi gương thì trên thực tế tìm hiểu biết là để thỏa mãn cho riêng họ, hơn là để phụng sự con người. Vài kẻ trong nhóm này bực bội với điều mà họ khinh mạn gọi là ‘tình huynh đệ nói như con két’ mà ‘lão phu nhân’ luôn khăng khăng cho là nền tảng của Theosophy, còn họ xem như ’CHỈ là đạo đức’.
Cho dù những ai tự nhận là kẻ theo gương bà luôn có thất bại không hiểu được bà, và có sự diễn giải sai lầm thiếu lương tâm của kẻ thù nghịch mạnh mẽ, bà không hề mất niềm tin vào công cuộc, hay có lòng tận tâm bị nao núng đối với phần việc mà bà đảm nhận. Dù gặp khó khăn về cả thể chất và tinh thần, bà làm việc không biết mệt, và bài viết của bà không cho thấy dấu vết gì về tình trạng sức khỏe, làm cho đời bà tự nó là chuyện lạ lùng và thành quả văn chương của bà là điều kỳ diệu.
Có gì cần để bác bỏ lời tấn công về tư cách của bà, khi ta có những tác phẩm đồ sộ để lại, là chứng tích cho sự cao cả của linh hồn và trí tuệ bà như bộ The Secret Doctrine, The Voice of Silence, Isis Unveiled và The Key to Theosophy ?

19F William Kingsland
2 tháng 6 - 1888, London
Tôi có may mắn được gặp bà Blavatsky lần đầu tiên ngày 2 tháng 6 lúc bà ngụ tại số 17 Lansdowne Road, Notting Hill, và đã qui tụ quanh bà một số đáng kể người tận tâm làm việc. Dầu vậy lần tới thăm này không phải là lần đầu tiên tôi được biết Theosophy, vì từ khoảng hai tháng trước đó tôi đã dự những buổi họp hằng tuần của ông Sinnett tại nhà ông. Tôi đã đọc quyển Occult World và Esoteric Buddhism của ông, và những số đầu tạp chí The Theosophist xuất bản ở Ấn Độ.
Các sách vở này mở ra cho tôi một thế giới mới về tư tưởng và nỗ lực. Theosophy làm vang lên một âm điệu mà bản chất sâu kín nhất trong tôi lập tức đáp ứng lại. Ở đây được làm lộ ra không chỉ việc có thể có được hiểu biết tích cực nơi mà khoa học và triết lý và tôn giáo chỉ có thể đoán, mà trọn vũ trụ học và nhân chủng học của ‘Minh Triết Cổ Thời’ đối với tôi dường như là giải thích hợp lý duy nhất, về điều mà ta thật sự biết một cách khoa học và lịch sử về thế giới ta sống trong đó, về bản chất của chính ta là con người, và về tài liệu sách vở từ quá khứ xa xưa truyền đến ta.
Nằm dưới tất cả những điều thu hút óc lý luận của tôi là cảm tưởng không thể định nghĩa được - mà rất nhiều người khác cũng đã kinh nghiệm - là nay tôi tiếp xúc không phải lần đầu tiên với các hiểu biết này, mà tôi chỉ tìm thấy lại trong tâm thức điều quen thuộc với nội tâm. Thế nên, với tâm trí hăng hái muốn có thêm giác ngộ, tôi muốn tìm hiểu người phụ nữ đáng nói, là nhân vật tiền phong cao cả của phong trào tân thời, nhằm làm hồi sinh các chỉ dạy và truyền thống huyền bí cổ xưa.
Thực thế, chỉ dạy mà không phải người phụ nữ đã thu hút tôi. Tôi muốn đi tới nguồn con suối, nhưng tôi rất dè dặt với ý nào tôi có thể có về cá tính của bà, vào lúc ấy bị cáo buộc là kẻ lừa đảo và gian dối. Chắc chắn trong trường hợp của tôi không có xu hướng tình cảm, và tôi rất thận trọng về nhận xét nào mình có thể có về khí chất và cá tính đáng nói nhất của bà.
Tôi không hề xin bà làm phép lạ, cũng như không hề thấy bà làm bất cứ phép lạ nào. Các hiện tượng này, điều mà nhiều người dựa vào đó hoàn toàn, và có lẽ chúng tạo cho bà nhiều kẻ thù hơn là bạn, đối với tôi luôn luôn có tầm quan trọng thứ yếu so với các chỉ dạy, tuy tôi có thể nói rằng đối với tôi chúng không những có vẻ như là được chứng nhận quá đủ, mà còn tự chúng không phải là không thể có được. Nghiên cứu tâm linh đã  tiến bộ lớn lao từ lúc ấy, và không có gì quá đáng khi nói rằng việc khả hữu của chúng nay đã được chứng minh một cách khoa học.
Điều đáng nói nhất có thể nêu ra về những quyền năng đáng kể mà không nghi ngờ gì là HPB có từ thuở nhỏ, và cũng không nghi ngờ gì là bà đã biểu lộ trong nhiều dịp, là chúng chứng minh sự kiện các quyền năng này có thể được sở hữu và dùng một cách thông minh, không theo cách ‘đồng bóng’ mà bằng việc sử dụng đúng đắn ý chí đã luyện tập. Nhưng không có gì mới mẻ về việc ấy, nó là hiểu biết có từ lâu đời ở đông phương được biết dưới tên Yoga.
Tôi không thấy làm sao bất cứ hiện tượng nào mà người ta cho là bà làm, có thể là bằng chứng cho chân lý của các chỉ dạy, tuy chúng có thể chứng tỏ sự hiện hữu của các Chân sư, cũng như sự kiện là mỗi cá nhân sở hữu nhiều quan năng và quyền năng tâm linh chưa biết và chưa phát triển. Dầu vậy, cho dù có bản tường trình của hội Nghiên cứu Tâm linh, tôi cho là quyền năng lạ lùng của bà đã được hoàn toàn chứng tỏ do một số rất đông các nhân chứng đáng tin. Tự nhiên là tôi dè dặt không kết luận chi khi mới biết bà; nhưng tôi chưa thấy có lý do gì khiến mình xét lại những ấn tượng thuận lợi có ban đầu, và từ đó tới nay dùng triết lý, mà tôi học được nơi bà, làm căn bản cho tất cả việc viết sách của tôi.
Nhân vật HPB mà tôi biết kỹ chắc chắn không phải là ‘kẻ lừa gạt khôn khéo’ như bản tường trình của hội Nghiên cứu Tâm linh trưng ra với ta. Nếu có nhân vật nào như thế từng hiện hữu, thì họ đã biến mất hoàn toàn vào lúc tôi quen biết tác giả bộ The Secret Doctrine.
Sao đi nữa, ngày nay bản tường trình đôi khi còn được trích dẫn như là đã chứng tỏ rõ ràng hiện tượng tâm linh liên kết với bà Blavatsky thì hoàn toàn là dối gạt, cũng như các Chân sư mà bà tuyên bố là đã nhận chỉ dạy từ các ngài, là do bà vẽ vời tạo ra, và trên thực tế không hiện hữu. Bản tường trình  không có bằng chứng nào có thể chấp nhận ở tòa án, chứng tỏ hoặc điều này hay điều kia của các giả dụ ấy.
Ai chê trách bà dường như nghĩ rằng nếu họ chỉ cần ném đủ bùn vào người phụ nữ đã cho đời các chỉ dạy TTH, thì nhờ vậy tự chúng sẽ bác bỏ những chỉ dạy. Nói về công cuộc lớn lao mà bà Blavatsky đã hoàn thành về mặt tài liệu mà bà cho thế giới qua The Secret Doctrine, The Voice of Silence, và The Key to Theosophy - chính các sách vở này và việc chúng dần dần được chấp nhận như là sự tuôn tràn mới mẻ các chỉ dạy tinh thần, vào lúc mà thế giới trôi vào chủ nghĩa duy vật, chứ không phải là bản tường trình, mà HP Blavatsky sẽ được thế hệ sau xét đoán. Các chỉ dạy và công trình biên soạn mà bà tặng cho đời theo với thời gian, chắc chắn sẽ đặt tên tuổi bà trong số những người cao cả nhất đã mang sự sáng cho thế giới.

Chương 20
Trường Bí Giáo và cuộc sống với HPB - 1888
Tháng Mười 1888 là một tháng đáng nói trong đời bà Blavatsky và lịch sử hội Theosophy. Đầu tiên, HPB nay đảm nhiệm toàn quyền chức chủ bút tờ Lucifer mà trước đây, bà và Mabel Collins là đồng chủ bút. Ngày 9 tháng Mười, ông Olcott khi ấy đang viếng thăm Anh, ký giấy thành lập Esoteric Section hay Trường Bí Giáo, nhằm mục đích học hỏi sâu hơn triết lý bí truyền, dành cho các học viên chuyên cần với HPB là người đứng đầu. Chi bộ Blavatsky nay là chi bộ đầu trong xứ bộ Anh. Ngày 20 tháng Mười, quyển I bộ The Secret Doctrine  được phát hành với ẩn bản đầu tiên là 500 quyển; chúng được bán hết trước khi in ra. Quyển II được xuất bản sau đó. Tới cuối năm, ông William Quan Judge sang Anh và Ireland, giúp HPB soạn điều lệ cho Trường Bí Giáo

20B William Q. Judge
Tháng Mười Hai 1888, London
Bà Blavatsky ngụ tại Holland Park, London cùng với nữ bá tước Wachtmeister, và dành thì giờ cho những việc làm cực nhọc cho Theosophy. Bà rất hiếm khi rời nhà, và từ 6.30 giờ sáng cho đến tối thường xuyên viết bài cho tạp chí Lucifer của bà và những sách báo Theosophy khác, chuẩn bị  bài cho bộ The Secret Doctrine vĩ đại sắp ra. Buổi tối bà có nhiều khách đến thăm thuộc đủ mọi hạng người: kẻ đi tìm hiểu biết, nhà phê bình, người hoài nghi, người tò mò, thân hữu, và tất cả được tiếp đón với vẻ duyên dáng, tình thân ái, và đơn sơ khiến ai nấy cảm thấy thoải mái với bà. Tới 10 giờ thì nói chung ai nấy ra về, trừ những bạn thân còn ở lại thêm một hay hai tiếng nữa.
Tuy bà Blavatsky đã qua tuổi trung niên sung sức, và trong ba năm qua sống ngược với nhận xét của bác sĩ hàng đầu ở London, họ đã buông tay với số phận của bà từ lâu, cho rằng vô vọng, có bệnh thận chết người không chữa được sẽ làm bà tử vong bất cứ lúc nào, bà không hề tỏ ra mệt mỏi nhưng là người dẫn đầu linh hoạt cuộc chuyện trò, nói tiếng Anh, Pháp, Ý và Nga trôi chẩy như nhau, hay thêm vài tiếng Ấn và Phạn khi nào cần.
Dù làm việc hay trò chuyện, thấy như bà không ngừng quấn thuốc lá, mồi lửa và hút điếu thuốc vấn thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ. Về diện mạo thì dường như bà không thay đổi gì cả so với lúc bà ở Hoa Kỳ vài năm trước, trừ việc có lẽ bà to lớn hơn một chút. Các đặc tính cùng thấy trên gương mặt là năng lực và lòng tốt lớn lao.
Nay bà Blavatsky rất ít khi biểu lộ khả năng huyền bí của mình, trừ vài người bạn thân; nhưng trong lúc tôi ở đó, vài chứng cớ cho thấy bà có thể làm những việc mà khoa học ‘chính xác’ không giải thích được. Hai năm về trước tôi mất ở New York một tờ giấy có giá trị rất đáng kể đối với tôi. Tôi nghĩ không ai biết là tôi có tờ giấy ấy, và tôi chắc chắn là không có nói với ai rằng đã mất nó.
Một buổi tối, khoảng hai tuần trước, khi tôi ngồi trong phòng khách của bà Blavatsky với ông B. Keigthley cùng vài người khác, tình cờ tôi nghĩ đến tờ giấy này. Bà đứng dậy, đi sang phòng bên và quay lại gần như tức thì, đưa tôi một tờ giấy. Tôi mở ra và thấy nó là phó bản ‘chính xác’ của tờ mà tôi đã mất hai năm trước. Thực ra nó là hình chụp phó bản vì tôi nhận ra ngay. Tôi cám ơn bà, và HPB nói.
– Chà, tôi thấy trong đầu ông là ông muốn có nó.
Tiếng chuông bạc reo trong dòng thanh khí bên trên đầu bà khi HPB ở New York vẫn tiếp tục theo bà, và chuyện không có gì phải nghi ngờ đối với những ai quen thuộc với đời bà và công việc của bà, là HPB thường xuyên nhận được trợ giúp mạnh mẽ nhất từ các đạo sư, nhất là Thầy của bà, Mahatma Morya, tranh vẽ ngài treo trong phòng làm việc của bà cho thấy gương mặt Ấn Độ sậm và đẹp đẽ, đầy sự ngọt ngào, sáng suốt và oai nghi. Lẽ tự nhiên thấy không thể nào ngài ở Tibet lập tức trả lời ngay, hoặc bằng ấn tượng lên tâm trí, hoặc bằng thư ‘kết tụ’ cho câu hỏi trong đầu bà nêu ra ở London, thế mà ấy sự kiện là ngài vẫn làm vậy luôn.
Các thân hữu gần gũi nhất của bà ở London là nữ bá tước Wachtmeister, chú cháu Keigthley, Mabel Collins, và bác sĩ Ashton Ellis. Thỉnh thoảng ông Sinnett cũng ghé qua.

20C Vô Danh
Tháng Mười Hai 1888, London
Tôi đến thăm bà Blavatsky một ngày trước vào buổi tối. Tôi có mẫu thư ngắn dí dỏm vui vẻ trong túi, mời tôi đến dùng trà và khuyến cáo rằng người viết ‘dễ được phỏng vấn như cá sấu thiêng của sông Nile xưa’. Phong bì của mẫu thư này in biểu tượng kỳ bí và tiêu ngữ không chê trách được, là không tôn giáo nào qua chân lý.
Tôi được đưa vào một gian phòng nhỏ ấm cúng ở tầng trệt của một căn nhà bề thế, có hai ngọn đèn và lò gas sáng như ba ngôi sao. Tôi ngửi thấy mùi thuốc lá Thổ nặng, và sau đốm đỏ của điếu thuốc lá tôi nhìn vào gương mặt rộng và đầy ấn tượng của bà Blavatsky. Bà thấp người, mập mạp, áo lụa đen phủ kín, bà có hình dạng rất đáng chú ý. Gương mặt sậm gần như ngâm đen thoạt trông có chút nặng nề (cảm tưởng đầu tiên của tôi là bà giống như một Cagliostro nữ phái tái sinh), với cánh mũi rộng, mắt to dịu dàng, và môi đầy đặn. Nhưng dần dần, nó cho thấy đó gương mặt linh động, truyền cảm, đầy cảm thông và rất trí thức… tôi cũng ghi nhận bàn tay bà thanh tú tròn trịa.
Một cái hộp tròn bằng gỗ tạc đặt ở khuỷu tay bà, cho bà Blavatsky thuốc lá để vấn thành điếu mà bà hút không ngừng, từ sáu giờ sáng khi bắt đầu làm việc, cho tới khi bà tắt đèn ban đêm. Bên cạnh hộp thuốc lá chỉ có một vật khác đáng nói trong phòng làm việc của bà, là hình vẽ chân dung Mahatma Morya (bà nói là thuộc dòng dõi triều đại Morya xưa), vị bà gọi là Thầy mình, ấy là gương mặt da sậm và đẹp đẽ, đầy dịu hiền và minh triết.
Bà nói mình đã gặp nhân vật này nhiều lần khác nhau bằng xương bằng thịt: một lần ở Anh, nhiều bận ở Ấn Độ, và mấy năm trước bà đi tìm ngài ở Tibet xa xôi, một cuộc hành hương lãng mạn không phải là không có nguy hiểm; trong thời gian đó bà đi tới mấy Lạt Ma viện hay tu viện Phật giáo và chuyện trò với các vị ẩn tu ở đó. Nhưng các người thân cận với bà Blavatsky có lắm chuyện để kể về đường lối kỳ lạ mà Mahatma của bà liên lạc với bà. Như thư từ không hề phải dán tem, hay qua tay bưu điện trung ương, và được chứng kiến từ trần nhà rơi xuống vào lòng bà. Những đoạn trích dẫn từ sách mà đôi khi bà cần tìm được đặt vào tay bà, viết trên mảnh giấy. Tập bản thảo mà bà để trên bàn qua đêm, tới sáng bà thường thấy có những đoạn được sửa, gạch bỏ, hay viết lại, chữ ghi ngoài lề thêm vào v.v. với nét chữ của Mahatma Morya.
Những khả năng mà người trong hội gán cho bà cũng đáng ngạc nhiên. Ai ở cùng nhà với bà tại Lansdowne Road thấy chuyện kỳ lạ mỗi ngày, và không còn lấy đó là điều ngạc nhiên nữa. Một khi ta chấp nhận lý thuyết là khả năng tâm linh tiềm ẩn trong con người, có thể trong vài điều kiện được phát triển, thì chuyện huyền thuật đủ loại hóa thành dễ tin và tôi tin là hội viên của hội tin vào cõi vô hình.
Mà không phải ai cũng chứng kiến các hiện tượng này, và có lẽ tôi không cần phải nói là bà Blavatsky (tuy mời tôi tự do dùng hộp thuốc lá của bà) từ chối không làm phép lạ cho tôi thấy. Chắc chắn sự từ chối của bà là khôn ngoan, vì nếu tôi chính mắt thấy việc khác thường, thì ai trong các độc giả sẽ tin bài viết của tôi ? (còn tiếp)